Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập
Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập: Cột mốc lịch sử của dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại, người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại tự do và độc lập cho đất nước. Một trong những dấu ấn lịch sử không thể phai mờ trong sự nghiệp của Bác chính là bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được đọc trang trọng tại Quảng trường Ba Đình lịch sử vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Bối cảnh lịch sử và quá trình ra đời của Tuyên ngôn Độc lập
Năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, thời cơ ngàn năm có một để giành lại độc lập đã đến với dân tộc Việt Nam. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn chiến lược và lòng yêu nước sâu sắc, đã bắt tay vào việc soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.
Quá trình soạn thảo
- 26/8/1945: Bác Hồ chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, quyết định thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.
- Đêm 28/8/1945: Tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Bác Hồ thức trắng đêm để viết bản thảo đầu tiên của Tuyên ngôn.
- Những ngày tiếp theo: Bác Hồ tiếp tục chỉnh sửa và hoàn thiện bản thảo, tham khảo ý kiến của các đồng chí trong Trung ương Đảng.
Ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập
Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ đơn thuần là một văn kiện pháp lý tuyên bố chủ quyền quốc gia, mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi người dân Việt Nam. Qua những lời lẽ đanh thép, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chính nghĩa của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, đồng thời gửi thông điệp kiên quyết đến toàn thế giới về quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
Đặc biệt, việc Bác Hồ khéo léo trích dẫn các Tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp đã thể hiện sự uyên bác, tầm nhìn quốc tế và bản lĩnh chính trị của Người. Điều này đã giúp Việt Nam nhận được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi từ cộng đồng quốc tế.
Tầm quan trọng của Tuyên ngôn Độc lập đối với dân tộc Việt Nam
Bản Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành biểu tượng bất diệt cho lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 hàng năm được kỷ niệm là Ngày Quốc khánh, nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam về giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do và những hy sinh to lớn mà thế hệ cha anh đã phải trải qua.
Hơn cả một văn kiện lịch sử, Tuyên ngôn Độc lập còn là lời tuyên thệ của toàn thể dân tộc trước toàn thế giới: Việt Nam sẽ mãi mãi bảo vệ nền độc lập, tự do và những giá trị dân chủ mà biết bao thế hệ đã ngã xuống để giành lấy.
Toàn văn Tuyên ngôn Độc lập
"Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị - Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế - Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn trước. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng, và tài sản cho họ.
Sự thực là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Cộng hòa Dân chủ.
Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Bởi thế cho nên chúng tôi - Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới - đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng Minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi - Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Chủ tịch Hồ Chí Minh và bản Tuyên ngôn Độc lập mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo tài tình và tấm lòng yêu nước vĩ đại của Bác đã đưa đất nước thoát khỏi ách nô lệ, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng bất tận, thôi thúc các thế hệ người Việt Nam tiếp tục xây dựng và bảo vệ đất nước, hướng tới một tương lai tươi sáng và phồn vinh, vững bước trên con đường hội nhập và phát triển, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.