Trần Quang Khải sinh vào tháng 10 âm lịch năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 10 (1241). Ông là con thứ 3 của vua Trần Thái Tông và Thuận Thiên Hoàng hậu, ông cũng là em của vua Trần Thánh Tông.
- Năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ông được phong tước Chiêu Minh Đại Vương.
- Năm Thiệu Long thứ 4 (1261), ông được phong làm Thái Úy khi mới 20 tuổi.
- Năm Thiệu Long thứ 8 (1265), ông được phong làm Thượng Tướng và được điều vào trấn thủ Nghệ An.
- Năm Thiệu Long thứ 14 (1271), ông được phong Tướng Quốc Thái Úy, trờ thành đại thần đứng đầu triều Trần.
- Năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), ông được phong làm Thượng Tướng Thái Sư nắm cả quyền dân sự và quân sự.
Trần Quang Khải là vị tướng tài, đóng góp nhiều công lao cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần hai (1285) và lần ba (1288)
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285), Trần Quang Khải được điều vào trấn thủ Nghệ An. Trước thế giặc mạnh, Trần Quang Khải cho quân đóng giữ các nơi hiểm yếu, quân Nguyên tiến đánh không được bèn rút ra bắc. Trần Quang Khải báo tin cho triều đình phục đánh quân Nguyên ở cửa Hàm Tử, diệt được 5 vạn quân Nguyên.
Quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy đóng ở Thăng Long, còn thuyền chiến thì đóng ở bến Chương Dương. Trần Quang Khải chỉ huy quân cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản tấn công quân Nguyên ở Chương Dương và đuổi chúng chạy vào thành Thăng Long. Ông cho phục binh đóng gần thành Thăng Long. Thoát Hoan đem quân ra đánh, bị phục binh nhà Trần đánh bại, chạy về nước (5/1285).
Ngoài những chiến công quân sự trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược. Ông còn là một nhà thơ nổi tiếng. Năm 1278, khi Sài Thung đi sứ sang nước ta, Sài thung hống hách ngạo mạn khiến triều đình bất bình. Khi Sài Thung về nước, Trần Quang Khải cò làm bài thơ tặng Sài Thung trong đó có câu:
“Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện
Ân cần ác thủ tự huyên lương.”
Tạm dịch:
“Chưa biết ngày nào cùng tái ngộ
Để ân cần tay nắm chuyện hàn huyên”
Hai câu thơ nói lên tài ngoại giao khéo léo, sự điềm tĩnh trước âm mưu, sự hống hách của giặc phương Bắc.
Khi đánh tan quân Nguyên lần thứ hai (1285), ông đã sáng tác bài thơ bài Tụng giá hoàn kinh sư nhân lúc hộ tống vua Trần về Thăng Long
“Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san”
Tạm dịch:
“Bến Chương Dương cướp giáo.
Cửa Hàm Tử bắt thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước cũ muôn thu”
Ngoài ra ông còn sáng tác nhiều bài thơ trong đó nổi tiếng là tập thơ “Lạc đạo” nay đã thất truyền chỉ còn lưu lại vài bài thơ như: Phúc hưng viên, Lưu gia độ, Giã thự, Xuân nhật hữu cảm nói lên cảnh thái bình của nước ta thời Trần.
Ngày 26 tháng 7 năm 1294 nhằm 3 tháng 7 âm lịch năm Hưng Long thứ 2. Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải qua đời tại thái ấp Độc Lập, phủ Thiên trường (Nam Định) thọ 53 tuổi. Ông được tôn làm thành hoàng của làng Cao Đài
Với những chiến công hiển hách. Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải được người đời vinh danh. Lúc sinh thời, Vua Trần Thánh Tông có bài thơ ca ngợi công lao của ông:
Tặng Trần Quang Khải
“Nhất đại công danh thiên hạ hữu,
Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô”
Tạm dịch
“Công danh một thưở còn bao kẻ,
Trung hiếu hai triều chỉ một ông.”
Sử sách cái triều đại sau này cũng ca ngợi ông: “Quang Khải lúc làm tướng võ, lúc làm tướng văn, giúp vương nghiệp nhà Trần, uy danh ngang với Quốc Tuấn.” (Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục)
Tên của ông cũng được đặt cho một số con đường, trường học. Trong đó trường chúng ta được vinh dự mang tên ông.